Được coi là một phát minh vĩ đại giúp cứu sống hàng triệu sinh mạng, nhưng thuốc kháng sinh cũng vô tình đẩy con người vào một cuộc đua không có điểm dừng và dường như không cân sức: chống lại đề kháng kháng sinh – phải gồng mình chạy theo quá trình tiến hóa chọn lọc tự nhiên của vi sinh vật – vốn vượt trội hơn nhiều so với con người. Điều này đang tạo ra cuộc khủng hoảng thực sự, không chỉ là thảm họa về kinh tế, mà có thể sẽ không hề có thuốc chữa. Loài người phải làm gì để không bị đo ván trước vi khuẩn kháng thuốc?
Kháng sinh ngày nay đã trở thành một loại thuốc được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, việc lạm dụng kháng sinh gây ra hiện tượng kháng thuốc cùng nhiều tác hại khác.
Kháng kháng sinh là khả năng của một vi khuẩn làm mất tác dụng của kháng sinh vốn có tác dụng tốt trên vi khuẩn đó. Hậu quả là các kháng sinh được sử dụng theo đúng phác đồ điều trị nhưng không hiệu quả, vi khuẩn gây bệnh vẫn tồn tại và có thể lây truyền sang người khác.
Đây là hiện tượng tiến hóa tự nhiên. Khi vi khuẩn tiếp xúc với một kháng sinh có phổ tác dụng, hầu hết các vi khuẩn sẽ bị kìm hãm hoặc tiêu diệt, nhưng một số vi khuẩn tự biến đổi để sống sót dưới tác động của kháng sinh. Đặc tính kháng kháng sinh của những vi khuẩn này sẽ truyền lại cho các thế hệ con, cháu của chúng.
Sử dụng kháng sinh không đúng cách sẽ làm đặc tính kháng kháng sinh của vi khuẩn lan truyền nhanh chóng, thúc đẩy sự phát triển vi khuẩn kháng thuốc, làm trầm trọng thêm thực trạng kháng thuốc.
Sử dụng kháng sinh đúng cách nghĩa là sử dụng kháng sinh đúng chỉ định, đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng đường dùng, đúng thời gian.
Sơ lược về lịch sử kháng thuốc và kháng sinh
Kháng sinh đầu tiên, penicillin, được Alexander Fleming tình cờ phát hiện từ năm 1928 khi một mẫu nấm mốc vô tình nhiễm vào môi trường nuôi cấy tụ cầu khuẩn và ức chế sự phát triển của vi khuẩn này. Phải mất đến hơn 10 năm sau, khi nhu cầu kháng sinh từ chiến trường Thế chiến thứ 2 trở nên cấp bách, penicillin mới trở thành thuốc chữa bệnh nhờ nghiên cứu của Howard Florey và Ernst Chain giúp tinh chế và sản xuất kháng sinh này với số lượng lớn. Đóng góp của Fleming, Florey và Chain được ghi nhận bằng giải Nobel Y học chia đều cho ba người vào năm 1945.
Trước đó, Paul Ehrlich đã khám phá ra arsphenamine, một dẫn chất hữu cơ tổng hợp của arsen có hoạt tính trên vi khuẩn gây bệnh giang mai còn Gerhard Domagk phát hiện đặc tính kháng khuẩn của sulphanilamide, một chất được Paul Gelmo tổng hợp nhiều năm trước đó. Sự xuất hiện của penicillin đánh dấu kỷ nguyên vàng của kháng sinh, giúp cứu sống hàng triệu sinh mạng. Đa số các nhóm kháng sinh đang được dùng làm thuốc hiện nay đều được khám phá trong kỷ nguyên vàng giữa những năm 1940 đến 1970.
Nhưng cũng từ đây, thuốc kháng sinh đã vô tình “tạo điều kiện” cho vi khuẩn – vốn có khả năng thích nghi kỳ diệu – bước vào một quá trình tiến hóa chọn lọc tự nhiên rất nhanh chóng để chống chọi lại các thế hệ kháng sinh. Kể từ đó, đã có phát hiện và thừa nhận kháng thuốc cùng với việc phát hiện ra kháng sinh mới.
Tại sao kháng kháng sinh là mối quan tâm toàn cầu?
Các bệnh nhiễm khuẩn thông thường cũng đang bị đe dọa bởi các cơ chế kháng thuốc mới đang xuất hiện, dẫn đến bệnh tật kéo dài, tàn tật và có thể tử vong.
Nếu không có thuốc kháng khuẩn hiệu quả để phòng ngừa và điều trị nhiễm trùng, các ca phẫu thuật như ghép tạng, hóa trị ung thư, điều trị bệnh tiểu đường và phẫu thuật lớn (ví dụ, mổ lấy thai hoặc thay khớp háng) có nguy cơ nhiễm trùng rất cao.
Trong khi vi khuẩn liên tục biến đổi để trở nên đề kháng với kháng sinh, con người ngày càng có ít lựa chọn để kiểm soát chúng. Thật vậy, trong vòng hơn 30 năm qua, không có thêm nhóm kháng sinh mới nào được tìm ra. Số ít kháng sinh mới được bổ sung đều dựa trên việc biến đổi cấu trúc hóa học của các nhóm kháng sinh đã được phát hiện từ kỷ nguyên vàng.
Tình hình hiện tại
Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới, các bệnh gây ra bởi vi khuẩn kháng thuốc đã gây ra ít nhất 700 ngàn ca tử vong mỗi năm trên toàn cầu, trong đó gần một phần ba tử vong do nhiễm vi khuẩn lao kháng đa thuốc. Số ca tử vong do vi khuẩn kháng thuốc có thể tăng lên tới 10 triệu vào năm 2050 nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời, nhiều hơn cả số tử vong do ung thư và tiểu đường cộng lại.
Kháng kháng sinh có mặt ở mọi quốc gia.
Bệnh nhân bị nhiễm trùng do vi khuẩn kháng thuốc có nguy cơ làm bệnh nghiêm trọng hơn và dẫn đến tử vong nhiều hơn.
Kháng với Klebsiella pneumoniae – vi khuẩn đường ruột phổ biến có thể gây nhiễm trùng đe dọa tính mạng – đến phương pháp điều trị cuối cùng (kháng sinh carbapenem) đã lan rộng đến tất cả các khu vực trên thế giới. K. pneumoniae là một nguyên nhân chính của nhiễm trùng bệnh viện như viêm phổi, nhiễm trùng máu và nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh và bệnh nhân đơn vị chăm sóc đặc biệt. Ở một số quốc gia, vì kháng thuốc, kháng sinh carbapenem không có tác dụng ở hơn một nửa số người được điều trị nhiễm trùng K. pneumoniae .
Tình trạng kháng vi khuẩn Ecoli đối với một trong những loại thuốc được sử dụng rộng rãi nhất để điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu (kháng sinh fluoroquinolone) là rất phổ biến. Có nhiều quốc gia ở nhiều nơi trên thế giới, việc điều trị này hiện không hiệu quả ở hơn một nửa số bệnh nhân.
Thất bại điều trị trong lần điều trị cuối cùng của thuốc điều trị bệnh lậu (kháng sinh nhóm cephalosporin thế hệ thứ ba) đã được xác nhận tại ít nhất 10 quốc gia (Úc, Áo, Canada, Pháp, Nhật Bản, Na Uy, Slovenia, Nam Phi, Thụy Điển và Vương quốc Anh và Bắc Ireland).
WHO gần đây đã cập nhật các hướng dẫn điều trị bệnh lậu để giải quyết tình trạng kháng thuốc mới nổi. Các hướng dẫn mới của WHO không khuyến nghị quinolone (một nhóm kháng sinh) để điều trị bệnh lậu do mức độ kháng thuốc lan rộng. Ngoài ra, hướng dẫn điều trị nhiễm trùng chlamydia và giang mai cũng được cập nhật.
Kháng thuốc hàng đầu để điều trị nhiễm trùng do Staphlylococcus aureus Sica gây ra nhiễm trùng nghiêm trọng tại các cơ sở y tế và bệnh viện đang phổ biến. Những người bị MRSA ( Staphylococcus aureus kháng methicillin ) được ước tính có nguy cơ tử vong cao hơn 64% so với những người có dạng nhiễm trùng không kháng thuốc.
Colistin là phương pháp điều trị cuối cùng đối với các bệnh nhiễm trùng đe dọa tính mạng do Enterobacteriaceae gây ra có khả năng kháng carbapenems. Kháng với colistin gần đây đã được phát hiện ở một số quốc gia và khu vực, làm cho nhiễm trùng do vi khuẩn như vậy không thể điều trị được.
Việt Nam thuộc nhóm có tỷ lệ vi khuẩn đề kháng kháng sinh cao nhất thế giới. Một nghiên cứu cho thấy phế cầu khuẩn ở Việt Nam có tỷ lệ kháng penicillin và erythromycin lần lượt là 71,4% và 92,1%, cao nhất trong số 11 nước châu Á được khảo sát.
Do đặc thù khí hậu nóng ẩm thuận lợi cho vi sinh vật phát triển cũng như việc sử dụng kháng sinh không hợp lý, Việt Nam thuộc nhóm có tỷ lệ vi khuẩn đề kháng kháng sinh cao nhất thế giới. Một nghiên cứu cho thấy phế cầu khuẩn ở Việt Nam có tỷ lệ kháng penicillin và erythromycin lần lượt là 71,4% và 92,1%, cao nhất trong số 11 nước châu Á được khảo sát.
Ngay cả các kháng sinh cephalosporin thế hệ 3 và 4 cũng đã bị đề kháng với tỷ lệ 30-70% trong khi 40-60% kháng sinh nhóm aminoglycosid và fluoroquinolon không còn tác dụng trên nhiều chủng vi khuẩn. Ngay cả với một số kháng sinh nhóm carbapenem, tỷ lệ kháng thuốc của Acinetobacter baumannii, tác nhân gây nhiễm trùng bệnh viện hàng đầu hiện nay, cũng đã ở mức 80-90%.
Cần phối hợp hành động
Kháng kháng sinh là một vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến tất cả xã hội và được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố liên kết với nhau. Sự can thiệp đơn lẻ có tác động hạn chế. Hành động phối hợp là cần thiết để giảm thiểu sự xuất hiện và lan truyền của kháng kháng sinh.
Tất cả các quốc gia cần kế hoạch hành động quốc gia về AMR.
Đổi mới và đầu tư nhiều hơn là cần thiết trong nghiên cứu và phát triển các loại thuốc chống vi trùng mới, vắc-xin và các công cụ chẩn đoán.
Về phía mỗi bản thân chúng ta việc đơn giản nhất là cần phải uống thuốc kháng sinh theo chỉ dẫn của bác sĩ, không được tùy tiện. Việc mỗi cá nhân chung tay ý thức cũng góp phần bảo về sức khỏe bản thân và ảnh hưởng lâu dài đến hệ kháng kháng sinh.